VĂN HÓA-XÃ HỘI
Đình - Chùa Tri Lễ, xã Hà Thanh - Di tích lịch sử cấp tỉnh
27/06/2023 09:20:17

Đình - Chùa Tri Lễ, xã Hà Thanh - Di tích lịch sử cấp tỉnh

Đình - chùa Tri Lễ, xã Hà Thanh, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, tọa lạc trên thửa đất rộng rãi, thoáng mát tại vị trí trung tâm thôn; mặt tiền của Đình quay hướng nam, Chùa hướng tây. Phía trước Đình và Chùa là cánh đồng làng; phía đông và nam giáp khu dân cư và đường làng. Cách cụm di tích 500m về phía Bắc là ngôi đền thờ Hưng Đạo Đại vương - Trần Quốc Tuấn; cách 1km về phía đông là ngôi Miếu thờ Linh Lang Đại vương, một trong tứ vị Thành hoàng, tạo thành quần thể di tích của làng, đây là nơi sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân địa phương và du khách về tham quan, chiêm bái.

Năm 1945, Đình Tri Lễ là cơ sở hoạt động cách mạng của xã Hà Thanh, nơi tổ chức các cuộc mít tinh ủng hộ cách mạng. Sau khi giành chính quyền, nơi đây tổ chức hưởng ứng thực hiện phong trào “diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động. Người dân Tri Lễ cùng nhân dân trong xã đã tích cực tham gia lao động sản xuất, thực hiện khẩu hiệu “ Tấc đất, tấc vàng” cùng với chính quyền khắc phục khó khăn, quyên góp gạo ủng hộ Chính phủ. Bên cạnh đó, việc “ diệt giặc dốt” cũng được người dân Tri Lễ tham gia rất tích cực. Ban Bình dân học vụ được thành lập với tinh thần người biết chữ dạy người không biết chữ, tất cả mọi người đều phải tranh thủ vừa sản xuất cứu đói, vừa đi học. Thời gian này lớp học được mở tại đình Tri Lễ.

Trong cách mạng tháng Tám năm 1945, các ông: Nguyễn Văn Nghiệp (Tiên Nghiệp) - Chủ tịch Lâm thời xã Hà Thanh; Lê Văn Ngật - Thư ký xã; Nguyễn Văn Mão; Hoàng Văn Tính - Thư ký thôn; Nguyễn Văn Ngưng - Thôn đội trưởng cùng các ông Đặng Văn Phái, Vũ Văn Rặc, Vũ Văn Cửu, Nguyễn Văn Ấn là du kích thôn Tri Lễ (do ông Phái làm đội trưởng) tổ chức cuộc họp tại Đình Tri Lễ để bàn kế hoạch đánh pháp. Khoảng năm 1951-1952, trong làng có cụ Hoàng Văn Tính và cụ Lê Văn Loát mở lớp dạy học cho nhân dân tại Đình.

Bản đồ chỉ dẫn đường đến Di tích 
 
Quyết định công nhận Di tích lịch sử cấp tỉnh 
 
Bằng xếp hạng Di tích cấp tỉnh 
 

Nhân vật được thờ

Đình Tri Lễ thờ tứ vị Thành hoàng gồm: Thiên Sứ Đại vương, Linh Lang Đại vương, Quý Công Anh Linh và Viên Nam Lang công chúa. Về tiểu sử, thân thế, sự nghiệp của tứ vị Thành hoàng tại di tích hiện chưa tìm thấy tài liệu nào ghi chép. Trong “Thần tích - Thần sắc” do Hương lý, Kỳ hào làng Tri Lễ kê khai năm 1938 hiện lưu giữ tại Viện Thông tin khoa học xã hội Hà Nội chỉ cho biết các vị đều là Thiên thần và hiện không có sự tích nào được truyền lại.

Do có công bảo vệ, che chở, phù hộ cho nhân dân có cuộc sống bình an - hạnh phúc nên các ngài đều được ban Sắc phong: vị Linh Lang được phong 3 đạo vào các năm Đồng Khánh thứ 2 (1887), Duy Tân thứ 3 (1909) và Khải Định thứ 9 (1924). Còn ba vị Thiên Sứ Đại vương, Quý Công Anh Linh và Viên Nam Lang công chúa đều có một đạo sắc phong năm Khải Định thứ 9 (1924). Tiếc rằng trải qua thời gian với những khói lửa của chiến tranh nên hiện nay các sắc phong này đều không còn lưu giữ được.

Cũng như nhiều ngôi chùa khác của miền Bắc Việt Nam, chùa Tri Lễ thờ Phật theo thiền phái Đại thừa (Mahayana), nghia là “Cỗ xe lớn” (chở được nhiều người). Do đó trong chùa thờ rất nhiều tượng, ngoài Phật Thích Ca Mâu Ni còn thờ các chư Phật và chư Bồ Tát. Hiện nay chùa Tri Lễ có 25 tượng Phật, trong đó Phật Thích Ca Mâu Ni được tôn làm giáo chủ của đạo Phật, ngoài thờ Phật, chùa Tri Lễ còn thờ Tam tòa Thánh Mẫu (Thượng thiên Thánh Mẫu, Thượng ngàn Thánh Mẫu, Mẫu Thoải).

Trước cách mạng tháng Tám năm 1945

Đình Tri Lễ có một kỳ lễ hội chính diễn ra vào tháng Giêng trong 10 ngày, từ ngày 11 đến ngày 20, trọng hội là ngày 15, gọi là lễ Kỳ phúc.

Đối với người dân nơi đây, lễ hội Đình Tri Lễ đã ăn sâu vào trong tiềm thức và trở thành nét đẹp văn hóa đặc sắc không thể thiếu trong đời sống tinh thần và sinh hoạt tâm linh của họ. Mỗi độ xuân về, người dân làng Tri Lễ lại tổ chức lễ hội để tưởng nhớ đến các vị Thành hoàng đã có công bảo vệ, chở che cho nhân dân. Đây là một kỳ lễ hội lớn, thời gian kéo dài nên được dân làng chuẩn bị rất chu đáo. Theo quy định của làng, ngay đầu tháng Chạp của năm trước, làng đã họp bàn bầu ra Ban Hội đồng (còn gọi là Ban trị sự) gồm Chánh, Phó tổng, Lý trưởng, Tiên chỉ, Ban tư văn, các vị có chức sắc trong làng ra chốn đình chung để họp bàn và cắt cử, phân chia công việc cho từng người như: chuẩn bị lễ vật, đội hình tế lễ, dọn dẹp và bao sái đồ thờ tự, đội làm cỗ và các công việc cho lễ rước như: phân công người khiêng kiệu, cầm cờ, đánh trống, đánh chiêng,… Trong ngày này, họp bàn cắt cử đội tế cụ thể: Cựu Lý trưởng được làm Chủ tế, Lý trưởng đương chức làm tả văn, Chánh phó hội tân cựu điển lễ, Phó lý tân cựu đọc văn; thư ký, thủ quỹ, Trương tuần, Khán thủ, Trưởng bạ, Hộ lại vào thượng hương, các xã nhiêu vào tiến tửu.

Ngày 11,12,13 tháng Giêng, toàn thể dân làng cùng nhau dọn dẹp, phong quang đường làng ngõ xóm. Làng Tri Lễ có đầy đủ các thiết chế văn hóa như Đình, Chùa, Đền và Miếu. Khi làng vào hội, tất cả các di tích trên đều được sửa sang, trang hoàng đẹp đẽ, lộng lẫy bằng cờ và phướn. Tất cả công việc chuẩn bị cho hội được tiến hành chu đáo. Lễ vật cho ngày hội chính gồm: 01 thủ lợn, 01 mâm xôi, 02 con gà, 01 thúng gạo nếp mới; hương đăng, trà quả, kim ngân… Văn tế được đặt trên bảng văn, phủ vải đỏ, đặt trong long Đình.

Ngày 14 tháng Giêng: ông Chủ tế trịnh trọng đứng trước nhang án, thắp hương dâng lên các vị Thành hoàng để xin phép được mở cửa Đình, bao sái đồ thờ tự. Những người được phân công bao sái đồ thờ tự phải tắm rửa sạch sẽ, chay tịnh trước đó cả tháng để tỏ lòng thành kính với các vị Thành hoàng.

Nước bao sái đồ thờ được lấy từ giếng nước Đình đun với các loại lá thơm như hoa nhài, lá bòng (bưởi), xả, gừng,… công việc này do thủ từ và các chức dịch thực hiện trong không khí trang nghiêm, thành kính.

Ngày 15 tháng Giêng: Theo giờ quy định, đoàn rước kiệu long Đình và lễ vật đã được chuẩn bị trước đó có mặt đông đủ trước cửa Đình. Đoàn khởi hành từ Đình ra Miếu để thực hiện các nghi thức tế lễ. Sau khi thực hiện xong, đoàn sẽ quay về Đình để tiến hành tổ chức tế tại Đình.

Về quy trình của đoàn rước: Đi đầu là đội cờ thần được chia làm hai hàng đi song song nhau do các thanh niên thực hiện trong trang phục áo đỏ, quần trắng, chân quấn xà cạp, đi giầy, hai tay cầm cờ tiến thẳng về phía trước. Sau đội cờ là đội bát bửu, là những người trên 40 tuổi, mặc quần áo nâu, đầu đội nón lá, thắt lưng bó que, chân quấn xà cạp; tiếp sau là kiệu long Đình có 8 người khiêng và hai người đi sau cầm hai chiếc tán có nhiệm vụ che kiệu. Tiếp sau kiệu long Đình là kiệu bát Cống gồm bốn kiệu đi nối nhau, cụ thể như sau: Đi đầu là kiệu của Thiên Sứ Đại vương, tiếp sau là kiệu Linh Lang Đại vương, kiệu Quý Công Anh linh và Kiệu Viên Nam Lang công chúa. Mỗi kiệu có 8 người khiêng đều là những trai tráng trong làng có thân hình khỏe mạnh, nhanh nhẹn, chưa lập gia thất. Đi sau kiệu hộ giá là các bô lão, viên chức trong làng, cuối cùng là nhân dân và khách thập phương.

Về nghi thức tế tại Đình: Đội tế gồm 10 người được lựa chọn kỹ càng, là những cụ ông có sức khỏe, uy tín, gia đình song toàn, trong đó Chủ tế là Cựu Lý Trưởng mặc áo thụng đỏ, quần màu trắng, đầu đội mũ bình thiên màu xanh, chân đi hài. Nghi thức tế lần lượt theo trình tự tuần hương, tuần rượu, ẩm phước, đến đọc chúc, hóa chúc.

Từ ngày 16 đến ngày 19 tháng Giêng: Dân làng tiếp tục ra lễ Thành hoàng cầu mong cho mưa thuận gió hòa, gia đình mạnh khỏe, mùa màng bội thu. Trong những ngày này bên cạnh các nghi lễ thì nhiều trò chơi dân gian cũng được tổ chức như: kéo co, chọi gà, đi cầu thùm,.. đã thu hút đông đảo nhân dân và khách thập phương tham dự. Vào buổi tối các ngày, làng đều tổ chức diễn văn nghệ với các vở tuồng và chèo cổ. Có năm làng cho mời gánh hát ở các vùng lân cận về hát cho người dân nghe.

Ngày 20 tháng Giêng: Làng tổ chức tế giã đám, lễ vật tế gồm có mâm xôi, một con gà trống; một mâm hoa quả, trầu cau, tiền vàng. Sau khi tế xong các vị chức sắc cùng các bộ lão trong làng thụ lộc. Buổi chiều họp để rút kinh nghiệm cho lễ hội sang năm. Sau đó đóng cửa Đình và kết thúc lễ hội. Ngoài kỳ lễ hội chính, trong năm Đình Tri Lễ còn có các ngày lễ tiết:

- Ngày mùng 1 tháng 4 ( âm lịch): Lễ nhập hạ

- Ngày mùng 1 tháng 6 ( âm lịch): Lễ hạ điền

- Ngày mùng 1 tháng 7 (âm lịch): Lễ thượng điền

- Ngày mùng 1 tháng 9 (âm lịch): Lễ Xôi mới

- Ngày 23 tháng Chạp: Lễ thay mũ. Trong những ngày này tổ chức đơn giản do ban khánh tiết thực hiện.

Chùa Tri Lễ có các ngày lễ tiết:

- Ngày mồng 3 tháng 3 (âm lịch) là ngày Giỗ Mẫu;

- Ngày mồng 8 tháng 4 (âm lịch) là ngày Lễ Phật đản, kỷ niệm Phật Thích Ca Mâu ni đản sinh;

- Ngày 15 tháng 7 (âm lịch) là ngày Lễ Cầu Siêu;

- Ngày 20 tháng 8 (âm lịch) là ngày Lễ giỗ Cha;

Ngoài ra, vào các ngày tuần tiết, sóc vọng tại chùa tổ chức các buổi lễ cúng Phật cầu cho nhân khang vật thịnh, mùa màng bội thu.

Các nghi lễ được diễn ra trong ngày với quy mô nhỏ hẹp và trong phạm vi của làng do các cụ bà (Ban hội tự) tổ chức.

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, đất nước trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc M xâm lược. Cũng như nhiều ngôi Đình khác trong tỉnh Hải Dương, các sự lệ tại Đình được tổ chức trong phạm vi nhỏ hẹp và đơn giản, do các cụ trong ban khánh tiết tổ chức. Còn lễ hội của làng tạm thời không được tổ chức để tập trung sức người, sức của vào đành giặc, giải phóng đất nước. Sau khi nước nhà được thống nhất, Kinh tế, Văn hóa - Xã hội phát triển, lễ hội Đình làng Tri Lễ được dần khôi phục trở lại. Trong năm vẫn duy trì kỳ lễ hội chính vào tháng Giêng, nhưng thời gian và các nghi thức, nghi lễ được rút ngắn lại cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Lễ hội được tổ chức trong ba ngày (từ ngày mùng 4 đến ngày mùng 6) trong đó ngày mùng 5 là trọng hội.

Trước hội khoảng một tuần trưởng ban khánh tiết Đình Tri Lễ làm đơn đề nghị tổ chức lễ hội với Trưởng thôn. Sau khi được sự đồng ý của thôn, đồng chí Bí thư chi bộ, Trưởng thôn mang đơn đề nghị kèm theo một bản kế hoạch tổ chức lễ hội chi tiết gửi UBND xã Hà Thanh xin phép tổ chức lễ hội. Sau đó, ban khánh tiết Đình cùng trưởng thôn tổ chức họp với các thành phần gồm: đại diện các đoàn thể, các cụ cao niên, ban công tác mặt trận và trưởng các dòng họ để bàn bạc thông qua nội dung chương trình và giao nhiệm vụ cho các thành viên.

Ngày mùng 4, đại diện các ban, ngành, đoàn thể và nhân dân trong thôn ra Đình dọn dẹp, bao sái đồ thờ tự, cắm cờ, treo băng zôn, khẩu hiệu, dựng sân khấu… Sau đó, trưởng ban khánh tiết Đình và các cụ cao niên làm lễ xin phép các vị Thành hoàng cho mở lễ hội. Buổi tối, tổ chức giao lưu văn nghệ giữa các đội văn nghệ của thôn, xã (có năm mời nhà hát chèo Hải Dương về biểu diễn)

Đúng 8 giờ ngày mùng 5, ban tổ chức tiến hành khai hội, sau các nghi thức của buổi lễ như: tuyên bố lí do, giới thiệu đại biểu, diễn văn khai mạc, tóm tắt quá trình hình thành, trùng tu tôn tạo di tích… ban tổ chức mời đại diện ban khánh tiết Đình lên thỉnh ba hồi chiêng trống khai hội. Tiếp theo, là lễ tế do đội tế nam thực hiện theo nghi thức tế cổ truyền. Đội tế nam gồm 10 người tuổi từ 50 trở lên, mặc áo xanh, quần trắng, đi hia màu xanh, đội mũ cánh chuồn xanh, riêng chủ tế mặc áo đỏ, đi hia đỏ, đầu đội mũ cánh chuồn đ. Lễ vật gồm: thủ lợn, gà, xôi, hoa quả, trầu cau, trà rượu… nghi thức tế đủ ba tuần rượu, một tuần trà. Sau khi đội tế nam kết thúc, đội dâng hương nữ sẽ bắt đầu thực hiện nghi thức dâng hương lên các vị Thành hoàng. Đội dâng hương nữ gồm các bà tuổi từ 45 đến 70. Chủ tế trong trang phục tế màu đỏ, đội khăn xếp đỏ, xướng tế và các thành viên dâng hương mặc đồ tế màu vàng, đội khăn xếp vàng thực hiện nghi thức dâng hương. Sau đó, đại biểu, nhân dân và khách thập phương vào dâng hương các vị Thành hoàng.

Buổi chiều, tổ chức trò chơi như: chọi gà, cờ tướng, kéo co, đánh bóng chuyền.... thu hút đông đảo nhân dân trong và ngoài thôn tham gia.

Ngoài kỳ lễ hội trên, vào các ngày tết, ngày sóc, vọng… tại Đình cũng tổ chức dâng hương, cúng lễ do Ban Khánh tiết Đình và các cụ cao tuổi trong thôn thực hiện. Lễ vât gồm hương hoa, trà quả, phẩm oản, tiền vàng.

Hiện nay lễ hội Đình làng Tri Lễ đã có nhiều thay đổi về thời gian (từ 10 ngày rút ngắn còn 3 ngày), ngày tổ chức (trước từ 11 đến 20 tháng Giêng, nay từ 4 đến 6 tháng Giêng), các nghi lễ cũng được tổ chức đơn giản hơn để phù hợp với điều kiện của địa phương. Đặc biệt từ năm 2017 trong lễ hội chỉ còn đội tế nữ dâng hương (do đội tế nam đã giải thể). Tuy nhiên, lễ hội Đình làng Tri Lễ vẫn được xem là một sự kiện quan trọng của làng, thu hút đông đảo nhân dân, con em quê hương tham gia, đáp ứng nhu cầu văn hóa tín ngưỡng của nhân dân.

Các ngày lễ tiết tại Chùa vẫn được giữ nguyên như trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tuy nhiên, từ năm 2009, sau khi Chùa được trùng tu, xây dựng lại, nhân dân địa phương đã tổ chức hội Chùa. Thời gian, 3 năm tổ chức một lần, từ ngày 10 đến 12 tháng Giêng âm lịch.

Trước hội khoảng nửa tháng, đồng chí bí thư chi bộ, Trưởng thôn, Ban hội tự Chùa tổ chức họp với các tổ chức đoàn thể trong thôn như: Mặt trận, Phụ nữ, Đoàn thanh niên để xây dựng chương trình lễ hội, phân công phụ trách các phần việc cụ thể, chuẩn bị cho lễ hội: dọn dẹp vệ sinh trong, ngoài khuôn viên di tích, bao sái đồ thờ tự, cắm cờ thần, cờ phật, chuẩn bị lễ vật…

Ngày mùng 10 Ban hội tự Chùa cùng các phật tử làng Tri Lễ thực hiện các công việc bao sái đồ thờ tự và dọn dẹp xung quanh khu di tích.

Ngày 11: lễ khai hội được diễn ra, đại diện chính quyền thôn cùng ban hộ tự Chùa tổ chức đón lễ của các xóm, các đoàn thể trong thôn, đón tiếp phật tử và khách mời trong xã, đúng 8 giờ, văn nghệ chào mừng do câu lạc bộ văn nghệ của thôn biểu diễn, tiếp đến phần tuyên bố lí do, giới thiệu đại biểu, đồng chí bí thư chi bộ - Trưởng thôn thay mặt cho Ban tổ chức lên đọc diễn văn khai mạc. Tiếp theo, đại diện lãnh đạo UBND xã Hà Thanh, các tổ chức đoàn thể, nhân dân và du khách thập phương vào dâng hương, bái phật, sau đó, dân làng và các đại biểu, khách mời thụ lộc cơm chay tại Chùa.

Ngày 12: ban tổ chức tổng kết lễ hội, rút kinh nghiệm cho công tác tổ chức lễ hội năm sau được tốt hơn.

Đình Tri Lễ được xây dựng vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX), có kiến trúc hình chữ Đinh (J) gồm 5 gian đại bái, 3 gian hậu cung, chất liệu bằng gỗ tứ thiết. Năm 1960, địa phương hạ giải 3 gian hậu cung để lấy nguyên vật liệu xây dựng các công trình phúc lợi. Năm 2008, xây dựng lại 1 gian hậu cung và phần mái trên. Đến năm 2019 trùng tu toàn bộ hệ thống sân, giếng đình, tam quan, tường bao của di tích. Hiện tại Đình có kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm 5 gian đại bái, 1 gian hậu cung, chất liệu gỗ tứ thiết, xây theo kiểu bít đốc bổ trụ, mái lợp ngói mũi. Hệ thống vì kèo theo kiểu con chồng giá chiêng, họa tiết hoa văn được chạm khắc theo đề tài tứ quý, lá lật, lá hóa long...

Hiện nay, đình Tri Lễ tọa lạc trên khuôn viên 662,4m vuông. Tuy trải qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được kiến thúc truyền thống thời Nguyễn (thế kỷ XIX) kiểu chữ Đinh (J) gồm 5 gian đại bái và 1 gian hậu cung. Từ ngoài vào là Nghi môn kiểu hai tầng tám mái được xây dựng bằng chất liệu gạch, vôi vữa. Chính giữa bờ nóc mái đắp nổi hình mặt nhật với các đao hỏa xung quanh. Các mái đao nghi môn đắp nổi hình con rồng cách điệu. Khoảng cách giữa hai mái trên và mái dưới bên trong, bên ngoài đều có bức đại tự chữ Hán “Tri Lễ bảo đình ”, có nghĩa “ Đình quý Tri Lễ” và “ Như tại kỳ thượng”, có nghĩa “ Thánh như ở trên” . Xung quanh trụ cột Nghi môn có hai câu đối với nội dung ca ngợi các vị Thành hoàng và di tích linh thiêng có từ thời Nguyễn thế kỷ XIX.

Qua nghi môn là khoảng sân rộng được lát gạch vuông đỏ. Phía bên phải là tắc môn (bình phong) kiểu cuốn thư, chất liệu bằng đá xanh, một mặt chạm đề tài tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai) tượng trưng cho bốn mùa tươi tốt. Chính giữa có chữ Phúc, một mặt chạm đề tài long ngư hí thủy. Trên đầu bức tắc môn chạm lưỡng long chầu nhật. Bên cạnh nhìn ra là giếng Đình, qua khoảng sân rộng đến tòa đại bái có chiều dài 15,67m, chiều rộng 5,45m xây tường hồi bít đốc, mái lớp ngói mũi. Bờ nóc đắp nổi lưỡng long chầu nhật, gối đỡ mặt nhật là hình tượng hổ phù. Hai bên bờ nóc đắp kìm ngậm bờ nóc, đuôi cuộn vòng tròn vắt lên trụ đấu. Bờ guột để trơn được nối với cột trụ hiên ở hai bên, phía trên tạo hình lồng đèn vuông, đỉnh trụ đắp 3 con phượng đuôi chụm vào nhau, đầu quay 3 phía, trên thân trụ có các câu đối bằng chữ Hán ca ngợi cảnh đẹp và sự linh thiêng của di tích. Ngăn cách giữa lòng nhà và mái hiên là hệ thống cửa gồm 3 bộ chất liệu bằng gỗ, sơn màu nâu đỏ. Bộ cửa chính trang trí tứ linh, hai bộ bên kiểu bức bàn để trơn. Hai hồi trổ hình chữ Thọ cách điệu.

Bộ khung làm bằng gỗ tứ thiết, kết cấu vì kèo kiểu “con chồng giá chiêng’’, đỡ các bộ vì và mái Đình là hệ thống cột cái, cột quân đặt trên các chân tảng đá nhỏ. Các bộ vì liên kết với nhau bằng hệ thống xà dọc, các hoành gian và tàu mái tạo thành bộ khung chắc chắn. Ngoài các đầu dư chạm đầu rồng với các đường nét chắc, khỏe theo lối chạm lộng thì họa tiết trang trí hoa văn trên các xà nách, bẩy hiên là những mảng chạm khắc đạt trình độ nghệ thuật còn lưu giữ được nguyên bản tập hợp nhiều mảng chạm khắc dân gian với đề tài: tứ quý, hoa lá lật, lá hóa long và chữ Thọ. Bài trí tại tòa đại bái là bức đại tự và đôi câu đối với nội dung ca ngợi công lao của các vị Thành hoàng bảo vệ nước, giữ yên dân và được hậu thế lưu truyền mãi mãi.

Tiếp sau đại bái là một gian hậu cung dài 3,41m, rộng 3,12m. Công trình này được trùng tu lại vào năm 2008 bằng chất liệu bê tông cốt thép đơn giản, nối với gian trung tâm tòa đại bái để làm nơi thờ chính của ngôi Đình, tường xây bít đốc, mái lợp ngói mũi. Bên trong xây bệ gạch cao theo kiểu giật cấp làm nơi đặt Ngai, Bài vị của bốn vị Thành hoàng: Thiên S Đại vương, Linh Lang Đại vương, Quý Công Anh linh và Viên Nam Lang công chúa. Trước ngai thờ của bốn vị Thành hoàng là đài cơm, hòm sắt, đèn nến, mâm bồng, bát hương … được sắp xếp cân đối, hài hòa, tạo nên sự linh thiêng nơi thờ tự.

Chùa Tri Lễ được xây dựng cùng thời gian với Đình vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Đình - Chùa tọa lạc trên cùng một khuôn viên. Công trình có kiến trúc kiểu chữ Nhất (-) gồm 3 gian, chất liệu bằng gỗ tứ thiết, mặt tiền quay hướng nam. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, thực hiện chủ trương “ Bài trừ mê tín dị đoan” của Đảng và nhà nước, ngôi chùa bị hạ giải hoàn toàn, tượng phật được di chuyển về ngôi Đền của làng (cách chùa 500m về hướng Bắc). Đến năm 2008 Chùa được xây dựng lại gồm 3 gian nhỏ, tượng được rước từ Đền về Chùa. Năm 2017, thể theo nguyện vọng của cán bộ và nhân dân địa phương ngôi Chùa được trùng tu và xây dựng lại như hiện nay.

Hiện, Chùa có kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian tiền đường và 2 gian thượng điện, mặt tiền quay hướng tây nam. Toàn tiền đường có kích thước dài 8,82m, rộng 4,70m, dựng trên nền cao cách mặt sân 60cm với 3 bậc cấp, xây tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi. Bờ nóc tạo dải hoa thị mềm mại. Chính giữa bờ nóc đắp bức biển tự với ba chữ Hán “ Hưng Long Tự” (chùa Hưng Long). Hai đầu bờ nóc đắp “ kìm” ngậm bờ nóc, đuôi cuộn vòng tròn vắt lên trụ đấu. Ngăn cách giữa hiên và nội tự (lòng tòa tiền đường) là 3 bộ cửa, bộ chính giữa gồm 4 cánh, hai bộ bên 2 cánh theo kiểu thượng song hạ bản. Trên các tấm huỳnh cửa trang trí theo đề tài tứ linh (long, ly, quy, phượng). Các bảy hiên đắp vẽ “lá hóa long”, “lá lật” và chữ Thọ cách điệu.

Hệ thống bộ vì chịu lực gánh, đỡ cho mái của tiền đường gồm 2 vì chính theo kiểu “ giá chiêng ” và 2 vì áp hồi xây liền vào tường bao. Hệ thống vì nách được trang trí đề tài “ lá lật ”. Các chi tiết như cột cái, cột quân, câu đầu, trụ đấu, xà nách, hoành, rui… đều bằng bê tông sơn màu giả gỗ. Tiếp sau tiền đường là thượng điện 2 gian có chiều dài 5,31m, rộng 5,02m. Thượng điện được nối với gian trung tâm tòa tiền đường để làm nơi thờ tam bảo của ngôi chùa, tường xây bít đốc, mái lớp ngói mũi truyền thống, kết cấu khung chịu lực gồm 3 bộ vì, trong đó 1 bộ áp tường, toàn bộ công trình được làm bằng chất liệu bê tông cốt thép giống tòa tiền đường.

Hệ thống tượng tại chùa Tri Lễ bằng chất liệu gỗ, sơn son nhũ vàng. Ngoài 6 pho tượng: QKhứ, Hiện Tại, VLai, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Quan Văn có niên đại vào khoảng những năm 50 của thế kỷ XX, các tượng còn lại do nhân dân cung tiến trong thời gian gần đây. Ngoài tiền đường và thượng điện, trong khuôn viên chùa Tri Lễ còn có các công trình phụ trợ khác như:

- Tam quan: xây dựng năm 2018, chất liệu bằng gạch, vữa, mái tạo kiểu chồng diêm cổ các (2 tầng 8 mái), lợp ngói mũi. Chính giữa bờ nóc trang trí đề tài “ lưỡng long chầu nhật”, đỡ mặt nhật là mặt hổ phù. Các góc mái đắp “ lá hóa long” tạo sự uy nghiêm khi bước vào cửa Phật. Đỡ mái là trụ gạch, nối giữa hai trụ chính là cổng phụ, tạo thành lối ra vào rộng rãi, thông thoáng của di tích.

- Nhà tổ gồm: 3 gian, kiểu chữ Nhất (-), mặt tiền quay hướng tây, chất liệu bằng bê tông cốt thép. Tại đây, bài trí một pho tượng tổ và các đồ thờ tự như bát hương, lo hoa...

- Nhà bếp: 01 gian, mặt tiền quay hướng tây, mái lớp tôn, được xây phía sau nhà tổ. Phía bên trái chùa chính nhìn từ ngoài vào nhà mẫu làm tăng thêm sự uy nghiêm, khang trang, tố hảo của khu thờ tự.

Mặt trước Di tích lịch sử cấp tỉnh Đình Tri Lễ
 
Ban thờ Di tích Đình Tri Lễ 
 
Toàn cảnh Chùa Tri Lễ 
 
Mặt trước Di tích lịch sử cấp tỉnh Chùa Tri Lễ 
 
 

Hiện nay, cụm di tích còn lưu giữ một số cổ vật, di vật có giá trị như: 02 bát hương gốm Phù Lãng thời Hậu Lê (Thế kỷ 18) và hệ thống tượng thờ do nhân dân cung tiến.

Bát hương gốm Phù lãng tại Đình Tri Lễ 
 
Bát hương gốm Phù lãng tại Chùa Tri Lễ 
 
Một số hình ảnh lễ đón bằng công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh Đình - Chùa Tri Lễ 
 
 
 
 
 
 

Đến với Hà Thanh, rất mong quý khách thập phương hãy bớt chút thời gian ghé thăm quần thể Di tích lịch sử cấp tỉnh Đình - Chùa Tri Lễ.....

Xin chào và hẹn gặp lại!

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ XÃ HÀ THANH - HUYỆN TỨ KỲ

Trưởng Ban Biên tập: Phạm Xuân Thức

Địa chỉ: Hà Thanh - Tứ Kỳ - Hải Dương

Điện thoại: 0946207647

Email: Xuanthuchd06@gmail.com

Số lượt truy cập
Đang truy cập: 0
Hôm nay: 178
Tháng này: 2,878
Tất cả: 44,092